· Phép lạ Thánh Thể tại Lancianô, nước Ý· Phép lạ Mình và Máu Chúa Kitô
· Phép lạ Thánh Thể Offiđa
· Phép lạ Thánh Thể tại Walldurn, nước Đức, năm 1330
· Phép lạ Thánh Thể tại làng Santaren, nước Bồ Đào Nha
· Phép lạ Thánh Thể tại làng Bois Isaac, nước Bỉ
· Thánh Thể biến mất tại xứ Bùi Thái, Việt Nam
1. Phép lạ Thánh Thể tại Lanciano, nước Ý:
Linh mục nghi ngờ!
Tại thành phố Anxanum hiện nay còn giữ từ mười hai thế kỷ qua, một phép lạ vĩ đại của đạo Công giáo. Vào hồi thứ kỷ thứ 8, trong ngôi nhà thờ nhỏ kính thánh Legontian, có một cha Dòng thánh Basiliô đã hồ nghi không biết Chúa Giêsu có thật trong phép Thánh Thể hay không!
Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.
Bánh Thánh Thịt ấy đã được giữ rất cẩn thận tới ngày nay, cũng có kích thước lớn như bánh được Giáo hội quen dùng. Bánh có màu nâu nhạt, và trở thành màu hồng khi chiếu ánh sáng từ phía sau dội lại. Máu thì đông lại và ngả màu đất, vàng vàng như màu đất thô. Từ năm 1713, Thịt được lưu giữ trong một Mặt nhật bằng bạc chạm trổ nghệ thuật, do một nghệ thuật gia tại thành Neapoli chạm trổ, máu được đựng trong chén kiểu nghệ thuật xưa bằng đá phalê trong suốt.
Các cha Dòng anh em Hèn mọn thánh Phanxicô đã phục vụ thánh đường này từ năm 1252 theo lời của Giám mục Landulf, và của Toà thánh vào năm 1252.
Từ năm 1574, Mình và Máu Thánh đã được khảo nghiệm nhiều lần để xác định tính chất chân thực.
Năm 1970, một cuộc khảo nghiệm gồm một số khoa học gia nổi danh như giáo sư Odoardo thuộc viện lịch sử chữa trị và bệnh lý và Bệnh viện Vi trùng và Hoá học, cùng với giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học Siêna phụ giúp khảo sát.
Cuộc khảo sát đã đưa đến những quả quyết khoa học tuyệt đối không thể chối cãi và trở thành tài liệu với những bức hình chụp bằng ống kính hiển vi tinh xảo, có thể giúp ích cho việc tôn thờ công cộng. Giáo sư Lioni trong một cuộc họp vào ngày 4 tháng ba năm 1971 tại nhà thờ có phép lạ đã đưa ra những kết luận sau:
- Thịt là thịt thật và Máu là máu thật.
- Thịt thành bởi các thớ thịt tim.
- Thịt và Máu là thịt và máu loài người.
- Thịt và Máu cùng một loại AB.
- Trong máu cũng có những khoáng chất như chlorides, lân tinh, manhê, kali, muối biển và vôi.
- Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn được gìn giữ trong hiện tượng khác thường.
Khoa học quả quyết rằng, sau khi đã được khám nghiệm, đã có câu trả lời chắc chắn và thoả đáng xác nhận tính cách chân thực của Phép lạ Thánh Thể tại Lancianô.
Những lời quả quyết trên đây được Giáo quyền xác nhận trong một cuốn sách nhỏ có chuẩn ấn của Đức Cha Leopoldo Teofili, Tổng Giám mục Lancianô.
Máu Thánh chảy trên khăn thánh
Balano là một làng ẩn núp tại trung tâm đất Pháp, thuộc tỉnh Côte d’Or (Bờ biển vàng). Blanot vào năm 1331, không có tên trong bản đồ Nước Pháp. Dù vậy, nó cũng khá quan trọng để Chúa chọn nơi vô danh này tỏ mình Ngài ra và biến Blanot thành nơi danh tiếng.
Ánh sáng mặt trời toả chiếu trên Blanot vào buổi sáng Chúa nhật Phục sinh năm 1331 chưa đủ để sưởi ấm nông thôn. Mùa đông đã tiêu hao hết nhiên liệu mà mùa xuân vẫn còn lừng khừng chưa muốn khoe sắc. Giáo dân trong cộng đoàn, không quản ngại giá lạnh, đã đến tham dự Thánh lễ đầu tiên Mừng Chúa Phục Sinh, đây quả là một hành động hy sinh hiếm có. Họ bị đánh thức khỏi sự ngái ngủ ban mai do những cơn gió mãnh liệt. Mặc dầu những bức tường nhà thờ chắn được luồng gió, nhưng vẫn không cung cấp đủ sức ấm chống với cơn lạnh. Nhà thờ cũng trống trơn chẳng có gì có thể giảm bớt giá buốt. Những người này thật là những Kitô hữu đích danh. Không có gì ngăn cản họ ca tụng Thiên Chúa và tán tạ ơn Ngài, vì Ngài đã ban cho họ Ơn Cứu Chuộc.
Sáu giờ sáng, Cha Hugô de Baulmes, linh mục chánh xứ đang cử hành Thánh Lễ. Cử chỉ của ngài phản chiếu thái độ ngái ngủ lạnh lẽo của giáo dân. Ngài cũng cảm thấy lành lạnh, đôi khi ngam ngáp vì thiếu ngủ, nhưng ngài rất vui vẻ và hãnh diện được cử hành Thánh Lễ đầu tiên của Mùa Phục Sinh. Thật ra, dâng Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh là một vinh dự to lớn, mặc dầu phải hy sinh không ít. Bởi thế mà giáo dân đã khen ngợi cha xứ hết mình. Ngài hướng dẫn cộng đoàn qua những bài thánh ca tán tụng Chúa, hát lên lời ca “Alleuia” nhiều lần.
Điểm nổi bật trong ngày đại lễ Mừng Chúa Phục Sinh, cũng như trong các Thánh Lễ, là việc lãnh nhận Mình Chúa Kitô. Khi linh mục truyền phép bánh và rượu, ngài nhớ lại hai ngày vừa qua (Thứ Sáu và Thứ bảy Tuần Thánh), khi Giáo Hội, coi như đã chết vì không còn một sinh hoạt nào. Ngài quan niệm Mùa Chay rất nghiêm ngặt. Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá, Giáo hội đã đi vào một trạng thái tối tăm, và Giáo Hội không ra khỏi trạng thái ấy cho tới bây giờ, là sáng sớm của ngày thứ ba, ngày Chúa Phục Sinh.
Khi Hiệp Lễ, giáo dân quì nơi bao lơn để đón nhận Chúa Giêsu trong Bánh Thánh Thể. Cha Hugô đang cho rước Thánh Thể, thì một trong những người chịu lễ là bà goá d’Effours, chưa rước hẳn Mình Thánh vào trong miệng, bà đã ngậm chặt lại, để tránh cho Thánh Thể không bị rơi xuống đất. Thế mà, một mảnh nhỏ của Bánh Thánh bị bể ra, và rơi xuống. Chú giúp lễ tên là Tômas Caillot đã hứng được mảnh Bánh Thánh đó trên tấm khăn chén. Đây là một mảnh vải gai, vuông khoảng 5 inches, gấp lại hai ba lần, được hồ cứng, thông thường dùng để đậy chén thánh. Tấm khăn chén cũng được dùng để hứng dưới cằm những người chịu lễ, đề phòng khi Bánh Thánh bị rơi.
Cha Hugô không thể hay biết sự việc đã xảy ra. Ngài tiếp tục cho chịu lễ. Khi ngài sắp bỏ Mình Thánh vào nhà Tạm, bấy giờ Tômas mới nhớ tới mảnh bánh thánh đã rơi trên tấm khăn chén. Tômas kêu lên: “Cha, Cha, qua đây coi. Đây, trên tấm khăn chén, một mảnh Mình Thánh Chúa đã rơi xuống từ miệng của bà...”
Vị linh mục tiến mau tới chỗ chú giúp lễ đang cầm tấm khăn chén. Ý của ngài là sẽ đốt cháy mảnh Bánh. Nhưng khi ngài cầm lấy tấm khăn chén thì mảnh Bánh biến đi, và thay vào đó, một giọt máu xuất hiện. Tuy nhiên giọt máu không thấm qua tấm khăn che chén như thường mọi vết máu. Giọt máu nằm trên tấm khăn chén như một cục máu nhỏ.
Cha Hugô đem tấm khăn che chén dính máu vào Phòng thánh và giặt tấm khăn bằng nước ấm. Ngài vo đi vo lại nhiều lần (ít nhất là năm sáu lần). Vết máu lan rộng nhưng không phai màu, mặc dầu nước chảy từ tấm khăn xuống chậu rửa là máu đỏ. Sau cùng, khi biết chắc là giọt Máu không thể tẩy khỏi chiếc khăn, vị linh mục cắt phần khăn có mang vết máu và trở lại nhà thờ cùng với mảnh khăn ấy.
Hết mọi phần tử trong cộng đoàn đã chứng kiến sự lạ. Họ không muốn ra về trong khi Phép Lạ đang xảy ra. Cha Hugô đưa mảnh vải có vết máu từ Phòng Thánh ra với lòng tôn kính. Ngài xin họ đem cho ngài một Mặt nhật và long trọng đặt chiếc Khăn thần diệu vào Mặt nhật. Ngài công bố cho mọi người rằng: “Hỡi những người tốt lành thánh thiện, anh chị em có thể tin rằng đây chính là Máu của Chúa Kitô Chúa chúng ta? Tuy tôi đã vò nát nhiều lần, nhưng vẫn không có cách nào tách rời máu ra khỏi Chiếc Khăn.”
Vị linh mục rơi lệ vì vui mừng trong cơn bối rối, và rồi tạ ơn Thiên Chúa. Có thể suốt một đời linh mục ngài chỉ biết hoạt động trong những giáo xứ nhỏ rải rác nơi vùng quê. Ngài chưa một lần bén bảng tới những nơi phồn thịnh cũng như trụ sở của Giáo Phận. Chắc ngài cũng chưa bao giờ được những lời khuyến khích trong sứ mạng truyền giáo. Có thể ngài cũng cảm thấy bị bỏ rơi do chính Đức Giám Mục, hay các linh mục bạn. Nhưng bây giờ, ngài được Thiên Chúa, Thầy Chí Thánh của ngài, ban cho một món quà phép lạ Thánh Thể. Phải chăng đây chính là lúc Chúa Giêsu nói với ngài: “ Hỡi con, con đã làm việc phúc đức. Cha rất hài lòng về cách con phụng sự Cha qua các linh hồn trong những năm qua?”.
Tin về phép lạ được lan tràn qua những miền lân cận một cách nhanh chóng. Đức Giám Mục Địa phận Autun, Địa phận gần Blanot nhất, phái một đại diện tới Blanot vào Chúa Nhật thứ ba mùa Phục Sinh. Người đại diện đem theo một đoàn linh mục và công chứng viên để giúp ngài quyết định sự chính xác của phép lạ được đồn thổi. Cha Hugô đã đưa những người chứng kiến Phép Lạ Thánh Thể ra trước mặt uỷ ban điều tra. Họ tả lại những biến cố của sáng ngày Lễ Phục Sinh, khi Bánh Thánh đã biến thành Máu. Kết thúc việc thẩm vấn, uỷ ban do Đức Giám Mục phái đến đã nhất trí đồng ý rằng: Thiên Chúa đã viếng thăm dân làng Blanot cách đặc biệt, qua Phép Lạ Thánh Thể.
Năm sau Đức Giáo Hoàng Gioan XXII ban đặc ân cho những ai làm Lễ trong Nhà Thờ Blanot. Ngài cũng ban thưởng đặc ân cho những ai ủng hộ những lễ phục vì lòng tôn kính phép lạ và những ai đi kiệu Thánh Thể. Rất nhiều người hành hương tuôn đến Blanot. Tấm khăn che chén thấm Máu Thánh được đặt trong một hộp đựng thánh tích bằng thủy tinh Blanot đã trở thành trung tâm của những đoàn hành hương.
Chiếc khăn thần diệu được nghiên cứu một lần nữa vào thế kỷ 18 do Đức Giám Mục Địa Phận Autun. Ngài xác nhận rằng chiếc khăn vẫn còn được duy trì một cách an toàn, màu của Máu vẫn còn đỏ tươi, và những đường chỉ của vải đã không tiêu tan qua quãng thời gian hơn 400 năm từ khi phép lạ xảy ra.
Trước cuộc cách mạng Pháp, những chuyến hành hương và những cuộc rước bị ngăn cản do các linh mục coi xứ. Tại Pháp, mối tương giao giữa dân chúng và Giáo Hội đang trong tình trạng nguy hiểm. Các linh mục kêu trách rằng những người hành hương đã nên cớ cho rượu chè và truỵ lạc, gây nên phạm thượng hơn là tôn kính những kỷ niệm phép lạ. Mối bất bình đã lên tới tột điểm trong thời cách mạng. Những nông dân đã xâm chiếm nhà thờ Blanot và đã phá tan tành. Có người còn muốn phá huỷ hòm di tích chứa tấm vải thần diệu, nhưng những người địa phương đã ngăn cản. Một số người cùng với một nữ tu đã giấu Phép Lạ Thánh thể trong một nhà riêng. Phép lạ Thánh thể được tôn kính tại đây vào những ngày Chúa Nhật và những ngày lễ kính, cho đến khi sự đe doạ do cách mạng chấm dứt. Sau đó di tích được trả lại cho Giáo Hội.
Vào năm 1831, ngày kỷ niệm 500 năm xảy ra phép lạ, những nghi thức lễ long trọng được cử hành tại nhà thờ Blanot, nơi tôn kính vĩnh viễn Tấm Khăn che chén Thấm Máu Thánh đã được cung hiến. Thánh tích luôn được trưng bày tại đó quanh năm. Ngày nay, hơn 650 năm sau biến cố phép lạ, tấm vải vẫn còn trong tình trạng tốt. Vết máu vẫn còn trông thấy. Vào lễ Mình Máu Thánh Chúa, chiếc khăn thần diệu được mang theo sau kiệu Thánh Thể trong cuộc rước.
Trích dịch từ cuốn THIS IS MY BODY, THIS IS MY BLOOD của Bob & Penny Lord.
Máu Thánh tuân trào lần thứ hai ở Lancianô năm 1273
-Những nhân vật chính trong câu truyện kỳ lạ này được đôi vợ chồng mới cưới, Ricciarella và Giacômô (Giacôbê) Stasiô, con lừa, và một phù thủy. Thật ra, hôn nhân của họ không được Thiên Chúa chúc phúc. Chính ra khi thành vợ chồng hai người phải nên một, nhưng họ đã sống riêng rẽ đơn độc. Giacômô không hề để ý chăm sóc yêu thương vợ, trái lại chàng chỉ biết đến con lừa và coi nó hơn vợ mình. Trong khi đó chị Ricciarella khao khát một đời sống lứa đôi tốt đẹp. Chị nghĩ, nếu vợ chồng chị yêu thương nhau thắm thiết thì hạnh phúc biết bao. Chị đã không bao giờ để ý đến việc trả thù về cách đối xử tàn tệ của chồng đối với chị, cho dù chị biết rằng chồng chị đã phản bội và đi ngoại tình với người khác.
Sức chịu đựng của Riccirella có hạn và nàng mong muốn một đời sống ấm êm bên người chồng lý tưởng. Để đạt mục đích này, chị đã nhờ đến một mụ phù thủy. Mụ phù thủy này nổi tiếng trong việc mang lại sự kích thích tính dục cho những đôi vợ chồng hờ hững trong việc chăn gối. Thế rồi, mụ ta truyền cho Giccirella như sau:
“Hãy đi rước lễ, nhưng đừng nuốt. Đem Mình Thánh về nhà, đặt lên bếp và đốt thành tro. Sau đó, lấy tro bỏ vào rượu hoặc canh rồi đưa cho chồng uống. Chị sẽ thấy chàng bị kích thích và “khiêu dâm cực độ như mèo cái kêu gào tìm”. Xong đâu đó hãy cho ta biết hiệu quả”.
Mụ phù thủy vừa truyền lệnh xong, máu trong tim Ricciarella chạy dồn dập. Nàng bị một hấp lực thúc đẩy mạnh mẽ và thi hành rất lẹ việc quái ác này. Tuy nhiên, vì là người công giáo, nàng biết đây là một tội phạm thánh. Vì vậy, nàng đã phải vật lộn với lương tâm không ít trước khi quyết định thực hiện một hành độâng tai ác này.
Sau cùng, nàng đã nhắm mắt quyết định cách liều lĩnh, nàng đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, và rước Chúa. Tim nàng đập mạnh trong lúc nàng lập đi lập lại âm mưu toan tính mình sẽ thực hiện. Tới giờ Hiệp Lễ, Ricciarella ra vẻ như một Thiên Thần nhỏ lên rước Mình Thánh Chúa. Sau khi lãnh nhận Mình Thánh, nàng liền quay khỏi vị linh mục để có thể lấy Mình Thánh Chúa ra khỏi miệng. Nàng còn cẩn thận liếc lia lịa xung quanh, xem có ai thấy hành động của mình không.
Xong đâu đấy, nàng vội rời khỏi nhà thờ và chạy nhanh qua các đường phố Lancianô cho đến khi tới nhà. Hai bàn tay bỗng rung rất mạnh, nàng vội nhóm lửa và đặt nồi đất lên. Khi nồi rất nóng, nàng vất Mình Thánh vào nồi và Mình Thánh bắt đầu cháy khói. Tâm hồn bị dày vò, nàng không thể nào nhắm mắt được và quên đi hành động quái ác nàng đang thực hiện. Nhưng một sức mạnh vô hình thúc đẩy nàng tiếp tục công việc điên cuồng này là: nàng quá mơ mộng được chồng sẽ thương yêu và chăm sóc mình tận tình. Bỗng nhiên, Mình Thành Chúa hoá nên thịt đỏ tươi, và bắt đầu chảy máu quá nhiều. Lạ lùng hơn nữa, chính giữa miếng thịt đóù vẫn giữ nguyên vẹn hình dạng tấm Bánh Thánh và máu tiếp tục tuôn chảy từ tấm Bánh Thánh.
Nàng hốt hoảng lo sợ và không biết phải làm sao? Trong khi đó Máu Chúa cứ chảy ra đầy hết đáy nồi, và bắt đầu trào lên một cách nhanh chóng. Nàng vội lấy sáp ong và đất đổ vào nồi. Sáp ong và đất đầy nồi, nhưng máu vẫn thấm qua đất và sáp ong tràn lên tới miệng nồi. Hoảng hốt, nàng chộp lấy chiếc khăn trải bàn và bọc xung quanh nồi. Phân vân không biết phải bỏ ở đâu, nàng liền chạy ra chuồng lừa. Nàng chôn cái nồi cùng với Thánh Thể và khăn bàn.
Chiều hôm ấy, khi chồng về, Giacômô nhận thấy con lừa tỏ thái độ bướng bỉnh khác thường, nó nhất định không bước chân vào chuồng. Giacômô đã dùng mọi cách, nào vỗ về, nào vuốt ve, rồi đẩy, nhưng tất cả đều không kết quả, con lừa cứ đứng sừng sững nhất định không vào chuồng. Sau cùng, Giacômô lấy roi và bắt đầu quất lừa. Lừa đau đớn rống lên thảm thiết và miễn cưỡng đưa chân vào trong chuồng. Con vật nằm xuống gần nơi đống phân, như trong tư thế tôn thờ một vật gì?
Giacômô từ trước đến nay không bao giờ trách mắng và xử tàn nhẫn đối với Ricciarelia. Nhưng từ khi biến cố con lừa khó vâng lời xẩy ra, Giacômô trách mắng vợ vì thái độ của con lừa, đổ tội cho nàng đã bỏ cái bùa mê vào chuồng lừa. Giacômô nổi khùng quật nàng túi bụi bằng cây roi chàng đã dùng để quất con vật. Thế là cuộc sống hoả ngục bắt đầu từ đây. Ricciarella cảm thấy lương tâm cắn rứt. Nàng bắt đầu lấy làm lạ tại sao mụ phù thủy lại có sức mạnh tàn khốc như vậy. Những điều hứa hẹn đã không thấy, thật là “tiền mất tật mang”. “Tai hại hơn nữa, sự chung thủy và yêu thương gần gũi nhau càng ngày càng trở nên tệ, trong khi đó nàng mỗi ngày càng cảm thấy cắn rứt vì mang nặng tội lỗi quái gở.
Ricciarlla đã sống trong tình trạng này trong bảy năm. Tính tình nàng đổi khác thường và trở nên tức giận với mọi việc mọi người. Cách cư xử của chồng càng ngày đối xử với nàng tàn tệ. Điều này làm cho nàng tin đó là một hình phạt của Thiên Chúa giáng phạt trên mình nàng. Nàng thất vọng cực độ. Nàng không thể nhận thấy rằng Thiên Chúa sẽ mãi mãi tha thứ cho mình. Nỗi ray rứt nhất nàng cảm thấy là đã xúc phạm đến Thiên Chúa, nàng phạm tội không thể tha thứ. Sau cùng, chịu không được, nàng ước muốn đi xưng tội để giải thoát sự đau khổ trong trái tim và linh hồn. Nhưng khổ nỗi, nàng thiếu tin tưởng và tự ái quá ác, nàng nghĩ, mình không có can đảm chấp nhận sự hổ thẹn khi xưng thú tội tầy đình này với linh mục.
Sau cùng, trong thời gian ròng rã suốt 7 năm, nàng sống như người không hồn, Ricciarella đã mạnh dạn liên lạc với vị tu viện trưởng của tu viện Augustinô gần nhất ở Lancianô. Vị tu sĩ này quê quán ở Offiđa chính ngài đã giúp đỡ nàng tận tình và giải thoát nàng. Thế rồi Ricciarella đã xưng thú hết trọng tôïi của mình với vị linh mục. Ngài đi theo nàng về nhà. Họ đi thẳng vào chuồng lừa, đào qua lớp phân đã bị chất đống lại hơn bảy năm. Khi vị tu sĩ này thấy chiếc khăn và mở ra, ngài thấy dưới đáy nồi Mình Thánh Chúa đang chảy máu nhưng không hề bị hư hỏng chút nào trong mấy năm qua.
Ngài lấy khăn và che nồi đất chứa đựng Mình Thánh Chúa mang đi. Ngài không nói cho ai biết đến biến cố này. Riccialla cảm thấy khuây khoả vì tội ác của mình không bị tiết lộ ra bên ngoài. Nhờ vậy, hai vợ chồng nàng cảm thấy gắn bó và thông cảm với nhau hơn. Trong khi đó, để tránh liên lụy đến Riccirella, vị tu sĩ đó mang Phép Lạ Thánh Thể ra khỏi thành phố Lancianô. Ngài muốn sự vinh hiển của Phép Lạ Thánh Thể sẽ được tôn vinh mãi mãi, không muốn bị quên lãng, nên đã đưa về thành phố Offiđa, quê hương của ngài. Cũng vì lý do đó, vị linh mục xin phép các Bề trên rời khỏi tu viện. Vài ngày sau, ngài rời khỏi tu viện. Ngài mang Mình Thánh Chúa đến cha Michael Mallcani, tu viện trưởng tu viện Thánh Augustinô ở Offiđa. Cha Mallcani ôm lấy Phép Lạ như sản nghiệp vô giá của Offiđa, và lập tức xây một nhà thờ để tôn kính Phép Lạ Thánh Thể này. Đây là năm 1280, bảy năm sau khi Ricciarella đã phạm tội phạm thánh.
Cha Millicani tiến hành công việc rất nhanh. Cũng trong năm đó, Ngài và một tu sĩ khác đến Venice đặt mua một mặt nhật mà sau này trở thành nhà chứa đựng Phép Lạ Thánh Thể. Họ thuê một người thợ vàng làm việc đó trong bí mật. Sau khi làm xong, cha Millicani đã đặt Phép Lạ Thánh Thể vào và hai vị tu sĩ liền trở về Offiđa bằng thuyền. Nhưng lúc đó, người thợ vàng quyết định tiết lộ cho Công Tước thành Venice, tức là chính địa phương tại đó biết bí mật. Rất ước ao lấy lại Phép Lạ Thánh Thể cho riêng tỉnh của mình, Công Tước ra lệnh lấy thuyền đuổi theo và chận lại chiếc thuyền đang đưa hai tu sĩ và Phép Lạ Thánh Thể trở về Offiđa.
Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp. Trong lúc thuyền của Công Tước đuổi gần tới thuyền chở hai tu sĩ, thình lình biển Adriatic động mãnh liệt và hai tu sĩ thoát nạn. Hai tu sĩ tạ ơn Chúa và họ đổ bộ lên bến Ancôna, an toàn trở về tu viện tại Offiđa. Mặt nhật được đặt trong nhà thờ Offiđa, và Phép Lạ Thánh Thể còn giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay.